Chuyển đến nội dung chính

Trả lời câu hỏi cuối chương 3, 6, 7 | Chủ nghĩa xã hội khoa học

 Chương 3: Chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1. Làm rõ quan niệm về chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội trên thực tế? Những điều kiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ?

1) Làm rõ quan niệm về chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội trên thực tế

v  Chủ nghĩa xã hội - Giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin phát hiện ra quy luật khách quan của quá trình biến chuyển cách mạng căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội phát triển từ thấp đến cao diễn ra như “một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Lý luận về các hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng và được VILênin bổ sung, phát triển, cụ thể hoá trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết. Cho đến nay lý luận về hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên những giá trị có ý nghĩa về thế giới quan và phương pháp luận. Trước hết, lý luận về các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử được xác lập trên cơ sở quan điểm duy vật về lịch sử. Lịch sử nhân loại đã có năm hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau.

Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra tính tất yếu (trước hết là tất yếu về kinh tế) của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đây là hình thái phát triển cao nhất, kết tinh của văn minh nhân loại, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những giá trị của hình thái kinh tế - xã hội trước đó với đặc trưng cơ bản là có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ. sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hóa ngày càng cao.

C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã luận giải về đặc điểm của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở việc đã đưa ra dự báo khoa học về hai giai đoạn phát triển cao, thấp khác nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội:

- “Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản” (hay “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản”. Sau này V.I.Lênin và các Đảng Cộng sản gọi giai đoạn này là “chủ nghĩa xã hội” (hay “xã hội xã hội chủ nghĩa”).

- “Giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản”. Sau này V.I.Lênin và các Đảng Cộng sản gọi giai đoạn này là “chủ nghĩa cộng sản” (hay “xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa”).

Một đóng góp khoa học có ý nghĩa phương pháp luận khác của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin còn ở chỗ đã chỉ ra tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trước hết là quá độ về chính trị, thiết lập chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân.

Trên cơ sở dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về các giai đoạn cao, thấp khác nhau của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, VILênin đã vận dụng, phát triển sáng tạo và cụ thể hoá vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết từ sau cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thắng lợi (năm 1917). Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, VILênin đã tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo, linh hoạt vào xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm lịch sử - cụ thể của nước Nga. Những quan điểm của ông về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội với những nhiệm vụ mà giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản phải tiến hành, cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự.

Top of Form

 

2) Những điều kiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội?

Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội

Trong thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, căn cứ vào điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư bản vào giữa thế kỷ XIX, các ông cho rằng: chủ nghĩa xã hội với tính cách là một xã hội mới phải được “thoát thai”, “lọt lòng” từ chủ nghĩa tư bản. Như vậy, chủ nghĩa xã hội ra đời phải dựa trên những tiền đề vật chất cơ bản, như: 1) Sự phát triển của lực lượng sản xuất và 2) Sự hình thành giai cấp vô sản cách mạng. Bởi vì, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của đại công nghiệp trong chủ nghĩa tư bản, một mặt, thúc đẩy nên sản xuất xã hội và mặt khác, tạo nên giai cấp vô sản - giai cấp cách mạng nhất của xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen chính sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đến một lúc nào đó sẽ tạo ra tiền đề để xóa bỏ nó. Tiền đề đó chính là sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh “đào mồ” chôn chủ nghĩa tư bản.

Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về những tiền đề vật chất, về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng vô sản đã được VILênin sau này kế thừa, phát triển một cách sâu sắc và sáng tạo trong học thuyết về nhà nước và cách mạng, mà cụ thể là về tình thế cách mạngthời cơ cách mạng. Tuy nhiên, VILênin cũng dự báo rằng: trong thời đại ngày nay chủ nghĩa xã hội vẫn có thể ra đời từ một quốc gia tư bản có trình độ phát triển trung bình thậm chí chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa song phải đảm bảo các điều kiện mới sau đây:

Điều kiện thứ nhất, phải xuất hiện “yếu tố thời đại”, tức là nhân loại đã chuyển sang giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản”. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản biến thành chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược, tước đoạt thị trường, gia tăng sự áp bức và khai thác thuộc địa, cướp đoạt giá trị thặng dư từ các quốc gia bị xâm lược, tạo ra mâu thuẫn xung đột và gây chiến tranh với các quốc gia khác để chia lại thị trường... gây ra tai họa cho hàng chục quốc gia và các dân tộc bị áp bức. Từ đó xuất hiện các “mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại mới”, như: 1) Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Đây vẫn được coi là mâu thuẫn cơ bản nhất xuyên suốt trong thời đại ngày nay; 2) Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm lược với các quốc gia dân tộc bị xâm lược và bị áp bức. Đây là mâu thuẫn đặc trưng cho thời đại mới; 3) Mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do xung đột lợi ích; 4) Mâu thuẫn giữa các nước giàu trong thế giới tư bản và các nước nghèo và lạc hậu do bị tụt hậu xa về kinh tế. Mâu thuẫn này hiện nay đang nổi lên như là một trong những mâu thuẫn chủ đạo tác động sâu sắc đến hầu hết các quan hệ kinh tế và chính trị thế giới trong thời đại ngày nay.

Điều kiện thứ hai để các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội từ một quốc gia tư bản có trình độ phát triển trung bình thậm chí chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa, theo VILênin phải có sự tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (chủ nghĩa Mác - Lênin), đặc biệt là luận điểm về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức... làm thức tỉnh phong trào dân tộc, phong trào yêu nước của các quốc gia đấu tranh chống các chế độ áp bức, bóc lột, bất công của chủ nghĩa tư bản hoặc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, xuất phát từ những mâu thuẫn không thể giải quyết dẫn đến những nỗ lực đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tại các nước tư bản phát triển dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản. Từ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra cũng có thể làm cho chủ nghĩa tư bản hoặc các chế độ áp bức bóc lột khác không còn cơ sở tồn tại, dẫn tới ra đời chủ nghĩa xã hội.

 

2. Phân tích đặc thù và tính phổ quát về tính tất yếu và đặc điểm về “quá độ bỏ qua” chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

Đặc điểm về “quá độ bỏ qua” của chủ nghĩa tư bản tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”

Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.

 

3. Phân tích về tính tất yếu, đặc điểm và nội dung thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?

1) Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin là một tất yếu khách quan, bắt buộc, bởi vì:

Một là, giữa chủ nghĩa tư bản (và các chế độ xã hội bóc lột khác...) và chủ nghĩa xã hội là hai kiểu chế độ xã hội khác nhau về bản chất (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...), do đó, dưới sự lãnh đạo của chính đảng mác xít, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân, nhân dân lao động cần thiết phải có một thời gian nhất định từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đặc biệt, đối với các quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì thời gian quá độ cho phép chuyển đổi giữa các nền kinh tế có thể diễn ra lâu hơn, thậm chí tính chất còn phức tạp hơn.

Hai là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao hơn các chế độ xã hội trước đó, do vậy, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân, nhân dân lao động phải có một thời gian nhất định để tổ chức sắp xếp lại hoạt động của nền sản xuất, từng bước đưa trình độ của nền sản xuất mới lên cao. Đối với với các quốc gia chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa, chưa thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ chuẩn bị này có thể kéo dài hơn với nhiệm vụ trọng tâm chủ yếu là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.

Ba là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất định.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chữ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.

2) Những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Trong lĩnh vực kinh tế. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động. Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.

Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới.

Trong lĩnh vực xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân xóa bỏ những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.

3) Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Về kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tương ứng với nó là những hình thức. phân phối khác nhau, trong đó thành phần kinh tế nhà nước và hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò chủ đạo.

Về chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này đa dạng phức tạp, nhiều giai cấp, tầng lớp cùng tồn tại với những lợi ích cơ bản vừa thống nhất , vừa có thể đối kháng nhau. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng là phải đi tới xây dựng được một xã hội đoàn kết trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác.

Về tư tưởng - văn hoá: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, vv.. Trên lĩnh vực văn hoá còn tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau. Đó là thời kỳ, xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản, nhất là trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ luật của các tầng lớp tiểu tư sản...

 

4. Phân tích các đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng?

1) Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội với tính cách là một chế độ xã hội ra đời và tồn tại ở giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một xã hội tiến bộ, ưu việt, là quá trình lịch sử tự nhiên phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người. Do đó, so với các xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội có một số đặc trưng cơ bản sau:

Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội phải được tạo ra bởi một nền sản xuất công nghiệp hiện đại.

Đặc trưng cơ bản nhất trong số các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.

Theo VILênin, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về thực chất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế nên chủ nghĩa xã hội phải có một nền kinh tế phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản trước đó. Trên thực tế, trước khi chủ nghĩa xã hội ra đời từ các nước tư bản chủ nghĩa thì bản thân nền kinh tế ở một số nước tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình độ xã hội hóa rất cao. Tuy nhiên, mặc dù có nền kinh tế phát triển với trình độ cao nhưng chủ nghĩa tư bản chưa đủ khả năng tạo ra sự thịnh vượng cho toàn xã hội bởi những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản đã không cho phép giai cấp tư sản tạo ra điều đó. Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu hướng đến sự thịnh vượng và đáp ứng nhu cầu về phúc lợi ngày càng cao cho toàn thể nhân dân thì càng không có cách nào khác là phải tạo ra một lực lượng sản xuất có trình độ cao hơn hẳn lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó chỉ khi chủ nghĩa xã hội tạo ra được một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, với năng suất lao động ngày càng tăng, số lượng của cải vật chất tạo ra ngày càng nhiều thì mới có khả năng đảm bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân.

Tuy vậy, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đối với một số quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nền kinh tế tư bản phát triển trung bình hoặc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” thì việc tạo ra một nền kinh tế có trình độ phát triển cao trong một thời gian ngắn không phải là dễ dàng. Điều đó, đòi hỏi các đảng cộng sản và công nhân tại các quốc gia này phải biết cách sử dụng “các bước đi quá độ thích hợp, trong đó không loại trừ khả năng sử dụng và tiếp tục duy trì các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa ngay trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa (VILênin gọi là sử dụng hình thức “chủ nghĩa tư bản nhà nước” để phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa) trong một giai đoạn nhất định (giai đoạn quá độ) để tạo ra bước đột phá cho việc tạo ra một lực lượng sản xuất tiến tiến ở các giai đoạn tiếp theo. Theo VILênin, đây là phương pháp thích hợp nhất để các quốc gia lạc hậu sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể xây dựng cho mình một nền kinh tế hiện đại bằng cách có thể học hỏi kinh nghiệm phát triển tử các nước tư bản phát triển.

Hai là, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đồng thời tiến hành thiết lập chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn nhắc nhở: trong quá trình thực hiện “sứ mệnh lịch sử” của mình, giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để “từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước”; hoặc: giai cấp vô sản “phải chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước”. Theo các ông, đây là điều kiện tiên quyết để giải phóng người lao động ra khỏi các quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, đồng thời cũng là tiền đề quan trọng để thực hiện tổ chức quản lý sản xuất và thực hiện phân phối công bằng trong chế độ mới. C.Mác và Ph.Ăngghen lưu ý việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa để thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn đồng nghĩa với việc xóa bỏ sở hữu cá nhân dưới chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là: chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân nhưng quyền sở hữu cá nhân vẫn được tôn trọng. Trọng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen tuyên bố: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng đang chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”.

Mặc dù thừa nhận việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân để thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới chủ nghĩa xã hội song C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa từ lâu vốn là một trong những động lực quan trọng cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nên việc xóa bỏ nó ngay lập tức là không thể mà phải “kinh qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực”. Sau này V.I.Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, “từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người. Tuy nhiên, VILênin cho rằng, trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa”, chưa thể thực hiện công bằng, bình đẳng, về mặt của cải thì vẫn còn chênh lệch, nhưng tình trạng người áp bức bóc lột người không còn nữa vì những tư liệu sản xuất chủ yếu đã được sở hữu thuộc về xã hội. Đặc biệt, bài học từ thực tiễn của cách mạng Nga, VILênin cho rằng: với các quốc gia trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm của nền kinh tế còn ở trình độ thấp thì việc thiết lập ngay chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chưa thể thực hiện ngay. Trái lại, trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ có thể thực hiện chế độ kinh tế nhiều thành phần. Thậm chí, trong những trường hợp cần thiết vẫn phải “kết hợp, liên hợp, phối hợp giữa nhà nước Xô viết - nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản”, nhưng kinh tế tập thể và nhà nước vẫn phải đóng vai trò chủ đạo. Cố nhiên, việc thực hiện chế độ kinh tế đa sở hữu chỉ là bước quá độ để tiến tới chế độ công hữu dưới chủ nghĩa xã hội khi đủ điều kiện chín muồi.

Ba là, tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa cao, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đòi hỏi việc tổ chức vận hành và quản lý nền sản xuất mới này phải hết sức khoa học, chặt chẽ và hiệu quả cao nếu không sẽ tạo ra một sự lãng phí nguồn lực và suy giảm về động lực thúc đẩy phát triển dưới chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, chủ nghĩa xã hội cần phải tạo ra một cách thức tổ chức lao động và kỷ luật mới cho người lao động với năng suất cao. Quan niệm về kỷ luật lao động mới không đồng nghĩa với với việc tăng cường khả năng, kiểm tra, kiểm soát đối với người lao động. Trái lại, cách thức lao động mới của người lao động dưới chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần hăng say, tự giác và sáng tạo. Mặt khác, quá trình tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phải tạo ra cho người lao động hiểu rằng: lao động của họ giờ đây không còn là sự cưỡng bức hay lao động “tự tha hóa”. Trái lại, hoạt động lao động trong xã hội mới đối với mỗi người giờ đây thực sự là lao động “vì mình”, lao động cho mình”, lao động là vinh quang.

Cố nhiên, để có được cách tổ chức lao động mới với ý nghĩa lao động tự giác sáng tạo đối với bản thân mỗi người lao động thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát toàn dân. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc tổ chức quản lý và vận hành nền kinh tế trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào những năm đầu của cuộc cách mạng cho thấy ngay sau khi kết thúc cuộc nội chiến, nước Nga bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với rất nhiều khó khăn về kinh tế. Với mục tiêu, một mặt, đưa nước Nga ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, mặt khác, tiếp tục định hướng cho nền kinh tế của nước Nga phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, VILênin đã vận dụng triệt để cách thức tổ chức quản lý và kỷ luật lao động mới đối với người lao động Nga. Ông cũng kiên quyết đề ra các nguyên tắc nhằm kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm là một hình thức của sự quá độ, là cái giữ cho xã hội không đi chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa trong điều kiện thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Rõ ràng, việc áp dụng cách thức tổ chức và kỷ luật lao động mới trong điều kiện cụ thể của cách mạng Nga của VILênin đã đưa nền kinh tế Nga sau này là Liên Xô trở thành một trong những nền kinh tế hùng mạnh có tính ưu việt nhất của nhân loại trong những năm thuộc nửa đầu của thế kỷ XX. Như vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn nhờ việc đưa ra một hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới theo nguyên tắc tự giác, tự nguyện song có sự kiểm kê, kiểm soát toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm đảm bảo lợi ích của đa số người lao động.

Bốn là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc cơ bản nhất.

Trong giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa nền sản xuất chưa phát triển đến mức đủ sức thỏa mãn nhu cầu của tất cả mọi thành viên trong xã hội nên nguyên tắc phân phối của cải trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào kết quả lao động: "làm theo năng lực, hưởng theo lao động". Đây là hình thức phân phối căn bản của chủ nghĩa xã hội, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất nên tất yếu làm chủ phân phối theo thu nhập. Lao động trở thành động lực và là cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Bởi, nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của sản xuất xã hội với lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích người lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn làm cho đội ngũ lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Điều đó còn thúc đẩy người lao động ra sức học tập văn hoá kỹ thuật, góp phần làm cho sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động bằng chân tay bị xoá bỏ dần. Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động được ổn định trong cả nước đảm bảo cho sản xuất xã hội cân bằng và có kế hoạch. Thêm vào đó nó góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình, từ đó ra sức đẩy mạnh sản xuất.

Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nhấn mạnh, ngoại hình thức phân phối theo lao động là cơ bản, một số hình thức phân phối khác có thể vẫn được kết hợp sử dụng như phân phối theo phúc lợi xã hội, phân phối dựa vào mức đóng góp vốn (cổ phần, cổ phiếu...), khả năng cống hiến cho cộng đồng xã hội, vv..

Năm là, chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân vừa mang tính nhân dân rộng rãi.

Khi bàn về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ "... bước thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ". Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết, VILênin đã khẳng định tính ưu việt của chế độ dân chủ vô sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa; tính ưu việt của chính quyền Xô viết, một hình thức của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trước hết nó là một công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân. Song lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, do vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn mang tính nhân dân rộng rãi. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin đã đưa ra quan điểm xây dựng Nhà nước kiểu mới” đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau: 1) Nhà nước phải do Đảng cộng sản lãnh đạo, bởi vì, nhà nước chỉ là công cụ, là thiết chế để thực thi đường lối chính trị của Đảng cầm quyền thông qua việc thể chế hóa đường lối chính trị đó và tổ chức thực hiện nó. Có như vậy, mọi hoạt động của nhà nước mới đảm bảo theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội và nhằm phục vụ lợi ích tối cao của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. ii) Xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tinh giản, tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả và tiết kiệm theo nguyên tắc “thà ít mà tốt” – tức là coi trọng chất lượng, không chạy đua theo số lượng, cán bộ công chức phải có năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Phải phấn đấu đạt “chất lượng kiểu mẫu thật sự”. iii) Cải cách nhà nước phải thể hiện tính cơ bản, tính hệ thống chặt chẽ, chính quy về các nguyên tắc và về tổ chức, không được nóng vội, trên cơ sở đó phát huy tính năng động, sáng tạo của bộ máy nhà nước và của viên chức nhà nước trong thực tiễn.

Bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi của nhà nước Xô viết do VILênin chủ trương xây dựng là thực tiễn sinh động để các đảng cộng sản trên thế giới tham khảo, vận dụng vào xây dựng Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cụ thể từng quốc gia, khu vực hiện nay.

Sáu là, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng và phát triển con người toàn diện.

Là một trong những học thuyết triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tự tưởng nhân loại, ngay từ khi mới ra đời học thuyết Mác đã đặt ra mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như Ph.Ăngghen khẳng định là đấu tranh để giải phóng con người, tạo ra “bước nhảy của con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”, là làm cho “con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình, thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình trở thành người tự do”. Cố nhiên, để đạt được mục tiêu tổng quát đó, chủ nghĩa Mác - Lênin đề ra mục tiêu cụ thể của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải đấu tranh “xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này đi bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ”. Đấu tranh giải phóng con người theo chủ nghĩa Mác - Lênin phải được thể hiện trên các nội dung cụ thể như giải phóng con người (cụ thể là đa số quần chúng nhân dân lao động) khỏi sự áp bức về chính trị, về kinh tế và đời sống văn hóa. Chỉ khi được giải phóng hoàn toàn trên các phương diện đó, con người mới thực sự hoàn toàn có được cuộc sống tự do.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, chủ nghĩa xã hội chính là đích đến của những con người tự do. Dưới chủ nghĩa xã hội, các quan hệ áp bức, bóc lột và bất công hoàn toàn được xóa bỏ, nhân dân lao động thực sự được giải phóng và tham gia làm chủ trong các quan hệ chính trị, kinh tế và văn hóa. Ph.Ăngghen cho rằng, dưới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hoá của nền sản xuất ngày càng tăng và sự phát triển mới của nền sản xuất xã hội, do các sự phát triển trên đem lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới, “những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”. Chính nền sản xuất xã hội đó sẽ “tạo nên những con người mới”, sẽ làm cho các thành viên trong xã hội đó có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới làm cho “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đây là mục đích tự thân của lịch sử mà chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ đạt tới trong một tiến trình hết sức lâu dài...

Ngoài các đặc trưng chủ yếu nêu trên của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin còn bàn đến một số đặc trưng khác như về văn hóa, xã hội, quan hệ giữa các dân tộc trong nước và quốc tế...

 

2) Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng

v  Về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành một quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bước đầu đã xác định sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, phần nội dung Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) ngoài việc tiếp tục khẳng định: “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” đồng thời tiếp tục bổ sung và nêu lên tám đặc trưng về “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng”, là:

- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Do nhân dân làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới...

v  Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam qua 30 năm đổi mới đã chỉ ra con đường phát triển tất yếu theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) đã đặt ra mục tiêu từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:

Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Hai là, hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, tạo; phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.

Bốn là, xây dựng phát triển văn hóa, con người; quản lý và phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.

Năm là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Sáu là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Bảy là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở mặt trận dân tộc thống nhất.

Tám là, xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tiếp tục cải cách sâu rộng thủ tục hành chính; đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liệu.

Chín là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ,... Kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng bảo thủ, trì trệ hoặc phiến diện, cực đoan, duy ý chí trong quá trình đổi mới phát triển đất nước.

 

Chương 6: Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

5. Phân tích đặc trưng cơ bản của dân tộc?

Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng có chung về sinh hoạt kinh tế. Trong mỗi dân tộc, mối quan hệ kinh tế là cơ sở để liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc lại. Mối quan hệ kinh tế đã làm tăng lên tính thống nhất, tính ổn định, tính bền vững của cộng đồng người sống trên cùng một lãnh thổ. Mối quan hệ này tạo nên nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Nếu thiếu tính cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân tộc.

Thứ hai, dân tộc là cộng đồng có chung lãnh thổ. Mỗi dân tộc có thể cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của cả nước, hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc gắn liền với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước. Đối với quốc gia dân tộc thì lãnh thổ là thiêng liêng nhất. Lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng ển, hải đảo, vùng trời thuộc chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Cộng đồng lãnh thổ là tác dụng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm Tổ quốc, quốc gia.

Thứ ba, dân tộc là cộng đồng có chung về ngôn ngữ. Mỗi một dân tộc có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tình cảm... Tính thống nhất trong ngôn ngữ dân tộc được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ dân tộc là một ngôn ngữ đã phát triển và sự thống nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.

Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng có nét tâm lý riêng.

Tâm lý dân tộc biểu hiện kết tinh trong đặc thù văn hóa dân tộc, gắn bó chặt chẽ với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc.

Văn hóa là một yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Trong sinh hoạt cộng đồng, các thành viên của dân tộc thuộc những thành phần xã hội khác nhau tham gia vào sự sáng tạo giá văn hóa chung của dân tộc, đồng thời hấp thụ các giá trị văn hóa chung đó. Cá nhân hoặc nhóm người nào từ chối những giá trị văn hóa dân tộc thì họ đã tự mình tách khỏi cộng đồng dân tộc. Văn hóa của một dân tộc không thể phát triển nếu không giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác. Tuy nhiên, trong giáo lưu văn hóa các dân tộc phải có ý thức bảo tồn và phát triển bản sắc của mình, tránh nguy cơ đồng hóa về văn hóa.

Các đặc trưng cơ bản nói trên gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Đó là bốn đặc trưng không thể thiếu một mặt nào của cộng đồng dân tộc. Các đặc trưng ấy có quan hệ nhân quả, tác động qua lại, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và độc đáo trong lịch sử lâu dài hình thành và phát triển cộng đồng.

 

6. Phân tích nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin và mối quan hệ giữa các nội dung đó?

1) Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin được V.I. Lênin soạn thảo ra trên cơ sở tư tưởng của học thuyết Mác về vấn đề dân tộc; căn cứ vào sự tổng kết kinh nghiệm cuộc đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga, dựa vào sự phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin gồm có ba nội dung chủ yếu:

a)      Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

Quyền bình đẳng là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Quyền bình đẳng là nội dung rất quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quyền bình đẳng được thể hiện ở chỗ, tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Không có dân tộc nào có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa và ngôn ngữ.

Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, để đảm bảo quyền bình đẳng phải khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc còn ở trình độ lạc hậu, bằng sự nỗ lực của chính mình cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em phát triển nhanh trên con đường tiến bộ. Đồng thời, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và quan trọng hơn là phải được thực hiện trong thực tế.

Trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Tất cả các quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế.

b)     Các dân tộc có quyền tự quyết

Quyền tự quyết là quyền thiêng liêng nhất của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia dân tộc.

Khi xem xét quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu đồ lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp công việc nội bộ của các nước và chia rẽ dân tộc.

Thấm nhuần quan điểm về quyền tự quyết của các dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn thể hiện quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết vấn đề tự quyết của dân tộc ta. Việt Nam vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhiều năm bị áp bức và đầu độc bởi chính sách chia để trị của thực dân. Chính vì vậy, nội dung cao nhất của quyền tự quyết là các dân tộc đoàn kết đấu tranh giành độc lập dân tộc và cùng nhau giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc, cùng nhau giữ gìn sự thống nhất của Tổ quốc, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa để các dân tộc đều được phát triển tự do và được chung sống hạnh phúc trên con đường văn minh, tiến bộ.

c)      Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc

Đoàn kết giai cấp công nhấn của các dân tộc trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức dân tộc và xây dựng mối quan hệ mới giữa các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nội dung này có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai cấp công nhân của các dân tộc có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời việc thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết cũng tùy thuộc vào sự đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân các dân tộc trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Chỉ có đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền bình đẳng và quyền tự quyết một cách đúng đắn. Trên cơ sở đó mới đoàn kết được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc trong cương lĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là giải pháp hữu hiệu đảm bảo việc thực hiện quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc. Nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin thành một chỉnh thể. Nội dung này phù hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiếng kêu gọi các dân tộc, quốc gia xích lại gần nhau. Chính vì vậy, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới và đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn của thời đại ngày nay.

2) Mối quan hệ giữa các nội dung đó

Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân của các dân tộc có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Nó quy định mục tiêu hướng tới, quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch HCM khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”

Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác Lenin là một bộ phận trong cương lĩnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải  phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sach dân tộc của Đảng  và Nhà nước XHCN.

 

7. Phân tích quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc?

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới thành lập đã thực hiện nhất quán những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, đồng thời căn cứ vào thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm đặc biệt quan trọng. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951 đã khẳng định: “Các dân tộc sống trên đất nước Việt - 123 Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc”.

Trong giai đoạn những năm đầu đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: “Làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng như nhân dân, cần khắc phục tư tưởng dân tộc to lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011, tiếp tục khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều nội dung mới. Đại hội đã chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có giá trị chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.

Đại hội X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vấn đề dân tộc và khẳng định đây là vấn đề chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Văn kiện của Đại hội đã chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ra. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện thắng lợi, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới , vùng căn cứ cách mạng, làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bố, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.

Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”.

Đại hội XII khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Tựu trung lại, quan điểm cơ bản của Đảng ta về vấn đề dân tộc thể hiện ở các nội dung sau:

- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.

- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.

- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đối với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.

 

8. Phân tích nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện nguyên tắc cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển. Các nội dung đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Có bình đẳng thì mới thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, thương yêu, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển thì mới thực hiện được bình đẳng dân tộc.

Chính sách dân tộc có các nội dung cụ thể phản ánh các yêu cầu, nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh-quốc phòng.

Về chính trị: nội dung cơ bản của chính sách dân tộc trong lĩnh vực chính trị là thực hiện chủ trương của Đảng về bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Về kinh tế, nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân tộc.

Phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện định canh, định cư, giao đất, giao rừng, phát triển kinh tế trang trại, chuyển giao công nghệ, trao đổi kinh nghiệm và bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.

Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng- văn hóa ở nước ta hiện nay.

Về xã hội: thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.”Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, công bằng thông qua việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị-xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.

Về an ninh quốc phòng, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú phần lớn là vùng núi vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh. Vì vậy chính sách dân tộc phải đảm bảo nội dung an ninh, quốc phòng trong điều kiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.

Thực hiện đúng chính sách dân tộc hiện nay ở Việt Nam là phải phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh-quốc phòng các địa bàn vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới, rừng núi, hải đảo của tổ quốc.

Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính chất toàn diện, tổng hợp, bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cộng đồng quốc gia, Phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân văn sâu sắc. Bởi vì, chính sách đó không bỏ sót bất kỳ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào, nó tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Đồng thời nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước.

 

Chương 7: Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

9. Phân tích, làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo và nguyên tắc ứng xử, giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?

1) Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo

Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng của tôn giáo. 

v  Khái niệm

Chủ nghĩa Mác – Lênin đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc của con người - những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên trở thành siêu tự nhiên, thần bí...

Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo còn được hiểu là một thực thể xã hội các tôn giáo cụ thể (đạo Chính Thắng, đạo Công Giáo, đạo Tin lành, đạo Phật...), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn giáo); có hệ thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức, 130 lễ nghi của tôn giáo; có hệ thống cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp); có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin theo một tôn giáo nào đó, và được tôn giáo đó thừa nhận.

Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể hiện niềm tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh, linh thiêng, gắn liền với phong tục, tập quán để cầu mong sự che chở, giúp đỡ, mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chế mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là khái niệm rộng hơn tôn giáo. Tôn giáo là một dạng của tín ngưỡng (tín ngưỡng tôn giáo).

Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Trong cuộc sống, khi con người sợ hãi trước một điều gì đó quan trọng, nhưng không giải thích được, mê tín sẽ xuất hiện để lấp vào khoảng trống sợ hãi, làm cho con người cảm thấy an tâm, bớt sợ hãi.

Dị đoan là sự suy đoán, hành động một cách tùy tiện, sai lệch những điều bình thường, chuẩn mực trong cuộc sống; là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần thánh đến mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch quá mức, trái với các giá trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và cộng đồng.

v  Bản chất của tôn giáo

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo, tín ngưỡng là một loại hình thải ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, chứa đựng những yếu tố tiêu cực, lạc hậu nhất định. Khác với các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, văn học, đạo đức, chính trị..., qua sự phản ánh của tôn giáo, những hiện tượng tự nhiên trở thành siêu nhiên. Ph.Ăngghen cho rằng: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. Thực tế cho thấy, nhiều nhà sáng lập ra các tôn giáo lớn, như Phật Thích Ca, Chúa Giê su, Nhà tiên tri Mohamét..., vốn là những con người tự nhiên - con người thực, nhưng qua lăng kính tôn giáo, họ trở thành những Đấng siêu nhiên.

Bên cạnh đó, trong bản thân mỗi tôn giáo đều chứa đựng những yếu tố lạc hậu, tiêu cực nhất định khi giải thích về bản chất các sự vật , hiện tượng, giải thích về cuộc sống của thế giới và con người. Một số tôn giáo, thông qua các giáo thuyết, và các hành vi cực đoan khác, đã kìm hãm nhận thức và khả năng vươn lên của con người, trước hết là những tín đồ; thậm chí đẩy họ đến những hành động đi ngược lại trào lưu, xu thế văn minh.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hoá do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Khi con người sáng tạo ra ngôn ngữ, công cụ sản xuất, sáng tạo ra nhà nước, chính là sáng tạo ra những điều kiện giúp họ không ngừng vươn lên trong làm chủ tự nhiên, xã hội. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại sợ hãi tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.

Con người, theo C.Mác, Ph.Ăngghen, chính là thế giới những con người, là nhà nước, là xã hội; nhà nước ấy, xã hội ấy đã sản sinh ra tôn giáo. Hai ông cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế.

Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều này nói lên rằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tôn giáo khác nhau về thế giới quan, về cách nhìn nhận thế giới và con người; giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tôn giáo, giữa những người cộng sản và người theo tôn giáo không hoàn toàn đối lập về tư tưởng như các thế lực thù địch, các thế lực chống chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn tuyên truyền.

Trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác - Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân. Trong những điều kiện cụ thể của xã hội, những người cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn ở thế giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tôn giáo.

v  Nguồn gốc của tôn giáo

a)      Nguồn gốc kinh tế - xã hội

Trước hết, do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên, xã hội để giải quyết các yêu cầu, các mục đích kinh tế - xã hội, cũng như cuộc sống của bản thân họ. Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh, con người ngày càng chịu tác động của những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi... nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của mình với những hậu quả khó lường. Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.

Trong những thập kỷ gần đây, với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của con người ngày càng được đảm bảo, con người có điều kiện hơn trong quan tâm giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh. Đây cũng là nguyên nhân cho sự nảy sinh, phát triển nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng và xuất hiện những loại hình tôn giáo mới.

b)     Nguồn gốc nhận thức

Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển.

Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo chính là sự tuyệt đối hoá,, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận thức con người, biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh.

c) Nguồn gốc tâm lý

Vấn đề ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, tình cảm của con người đối với sự ra đời và tồn tại của tôn giáo đã được các nhà vô thần cổ đại nghiên cứu. Họ thường đưa ra những luận điểm, như: “sự sợ hãi sinh ra thần linh”. VILênin tán thành quan niệm đó và bổ sung: “Sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, - mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó, - là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe doạ đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại”.

Nhưng không chỉ từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của thiên nhiên và xã hội đã dẫn con người đến nhờ cậy đến thần linh, mà ngay cả những nét tâm lý như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng,... trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.

v  Tính chất của tôn giáo

a)      Tính lịch sử của tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa là nó có sự hình thành, tồn tại và phát triển trong những giai đoạn lịch sử nhất định, nó có khả năng biến đổi để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội. Khi các điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện lịch sử thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi theo.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ còn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội loài người.

b)     Tinh quần chúng của tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu lục; không một quốc gia, dân tộc nào không có một hay nhiều tôn giáo. Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ rất đông đảo (khoảng 4/5 dân số thế giới); mà còn thể hiện ở chỗ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận khá đông đảo quần chúng nhân dân lao động.

Các tôn giáo ra đời, tồn tại phản ánh nhu cầu của quần chúng nhân dân muốn được giải phóng, thoát khỏi sự áp bức của các thế lực thống trị trong tự nhiên và trong xã hội. Dù tôn giáo hướng con người vào niềm tin hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn luôn phản ánh khát vọng của những người lao động về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Mặt khác, các tôn giáo chính thống đều có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện, góp phần hình thành các hệ thống đạo đức, phát triển, làm phong phú đời sống tinh thần, ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm của một bộ phận quần chúng nhân dân, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, tôn giáo được nhiều người ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt là quần chúng lao động, tin theo. Có nơi, tôn giáo trở thành yêu cầu sinh hoạt tinh thần của một dân tộc, gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của dân tộc và mang tính dân tộc.

c)      Tính chính trị của tôn giáo

Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị. Khi các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tính chính trị của tôn giáo gắn liền với tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ của giai cấp bóc lột, thống trị .

Vì vậy, cần nhận rõ rằng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị - xã hội lợi dụng nhằm thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ, phục vụ cho lợi ích và quyền lực của giai cấp thống trị, bóc lột.

v  Chức năng của tôn giáo

a)      Chức năng đền bù hư ảo

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên và xã hội đã nảy sinh nhu cầu khắc phục những mâu thuẫn thực tế trong ý thức, trong tưởng tượng nẩy sinh nhu cầu đền bù sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực - thế giới “trần gian” với thế giới bên kia - thế giới “siêu trần gian”.

Luận điểm nổi tiếng của C.Mác: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã chỉ ra rằng, tôn giáo có tác dụng làm dịu nỗi đau, an ủi bù đắp những thiếu hụt về mặt tinh thần của con người trong cuộc sống hiện thực, nhưng cũng giống như thuốc phiện, tôn giáo có thể gây ra những tác động có hại đối với con người khi tạo ra cho họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm nhiễm cho họ những quan niệm phi khoa học... Đó là hai mặt biểu hiện của bản chất tôn giáo, qua luận điểm nêu trên của Mác.

b)     Chức năng thế giới quan

Tôn giáo giúp con người có những nhận thức nhất định về thế giới và con người, thông qua hệ thống giáo thuyết của nó. Khi phản ánh thế giới hiện thực, tôn giáo muốn đưa ra một bức tranh về thế giới tương lai (thông qua hệ thống các quan điểm, nhận thức, lý giải về tự nhiên, xã hội và con người) nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người. Sự lý giải đó của tôn giáo không những hướng con người tới những nhận thức về thế giới (theo cách của họ), mà còn tạo ra ở tín đồ những thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh.

c)      Chức năng điều chỉnh hành vi

Thông qua hệ thống các giá trị chuẩn mực, cả trong nghi lễ và cuộc sống, tôn giáo góp phần quy định và điều chỉnh hành vi của con người, giúp con người hướng tới cái thiện, cái đẹp. Những chuẩn mực này không chỉ điều chỉnh các hành vi liên quan đến việc thờ cúng, nghi thức, nghi lễ tôn giáo, mà cả các hành vi trong cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ xã hội, quan hệ gia đình của tín đồ...

d)     Chức năng giao tiếp

Tôn giáo góp phần tăng cường các mối quan hệ giữa con người với con người, trước hết là những người cùng tín ngưỡng, cùng có chung một niềm tin tôn giáo. Sự giao tiếp chủ yếu được thực hiện trong hoạt động thờ cúng giao tiếp với thánh thần); ngoài ra còn có sự giao tiếp ngoài tôn giáo.

e)      Chức năng liên kết cộng đồng

Tôn giáo góp phần hình thành những cộng đồng xã hội - gắn kết với nhau dựa trên những giá trị, chuẩn mực tôn giáo. Trong các xã hội có áp bức bóc lột, có những trường hợp tôn giáo với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, đã đóng vai trò quan trọng trong sự liên kết, giữ gìn ổn định trật tự xã hội dựa trên hệ thống giá trị và chuẩn mực chung. Mặt khác, trong những trường hợp cụ thể khác, tôn giáo là ngọn cờ tập hợp các lực lượng đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chống lại các thế lực chính trị - xã hội phản tiến bộ đương thời.

 

2) Nguyên tắc cơ bản ứng xử với vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân

Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội... được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.

Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân.

Tôn trọng tự do tín ngưỡng còn là tôn trọng quần chúng. Quần chúng là nguồn gốc của mọi sức mạnh, là động lực phát triển của lịch sử. Qua đó, sẽ tập hợp, lôi kéo được quần chúng, để vừa phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng, vừa giáo dục, rèn luyện quần chúng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, qua đó giác ngộ cho quần chúng, hướng dẫn quần chúng phấn đấu cho hạnh phúc nơi trần thế, hạnh phúc hư ảo bằng hạnh phúc thật sự.

Tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của nhân dân là cơ sở để đoàn kết các lực lượng quần chúng có tín ngưỡng và không tín ngưỡng tôn giáo. Qua đó để tiến hành vận động quần chúng các tôn giáo và hàng ngũ giáo sĩ, chức sắc tôn giáo tham gia vào các hoạt động tiến bộ, yêu nước do Đảng lãnh đạo, tiến hành các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, văn hoá, khoa học kỹ thuật, thế giới quan duy vật khoa học cho quần chúng... Đồng thời đây còn là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng còn là để giúp các tôn giáo phát huy tính tích cực của mình thể hiện trong giáo lý, nghi thức tôn giáo, đồng thời làm giảm dần, đi đến xoá bỏ những đức tin mù quáng, những hành vi mê tín lỗi thời, những luật lệ tôn giáo khắt khe, vị phạm quyền con người, trái với xu thế phát triển chung của nhân loại, của đất nước.

Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

Nguyên tắc này khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng lao động (và qua đó gián tiếp thừa nhận trong tôn giáo có cả yếu tố tiêu cực và tích cực), chủ nghĩa Mác - Lênin không chủ trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo, không tuyên chiến với tôn giáo, không chủ trương xoá bỏ tôn giáo như luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch.

Nguyên tắc này được nêu ra trên cơ sở triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và thực tiễn giải quyết vấn đề tôn giáo. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội, muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Mà điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học..., cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người thì mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.

Cũng sẽ là ảo tưởng, là sai lầm khi đề ra mục tiêu khắc phục có hiệu quả những tác động tiêu cực của tôn giáo mà trên thực tế lại không hướng con người vào việc xây dựng một xã hội tốt đẹp, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Cần kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện 140 chia rẽ, bè phái, cục bộ vì sự khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo; cần khai thác và phát huy tiềm năng của đồng bào các tôn giáo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự thống nhất về lợi ích dân tộc, giai cấp và quốc gia sẽ tạo điều kiện tiến tới sự thống nhất về tư tưởng và hành động.

Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo trong vấn đề tôn giáo

Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo thực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, vấn đề tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần tuý trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “ta”. hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, đến một bộ phận quần chúng trong xã hội (những người theo tôn giáo).

Ngày nay, các thế lực phản động quốc tế đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Điều đó nhắc nhở Đảng của giai cấp công nhân cần nêu cao cảnh giác, giải quyết kịp thời, cương quyết đối với những hoạt động lợi dụng tôn giáo chống chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng phải hết sức khách quan, chính xác, tránh nôn nóng, vội vàng, chủ quan, định kiến.

Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng

Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.

 

10. Trình bày những quan điểm, tư tưởng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa?

1) Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam

Nhiều giá trị của các tôn giáo, cả vật thể và phi vật thể, phù hợp với đạo đức, văn hóa của xã hội mới và đóng góp quan trọng cho công cuộc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.

Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Điều đó thể hiện Đảng và Nhà nước ta nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo quy luật của quá trình chuyển biến về mặt tư tưởng của con người vào quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam - đó là một quá trình chuyển biến tự giác, dân chủ, từ thấp đến cao.

- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.

Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo là một nội dung đặc biệt quan trọng của đại đoàn kết dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với người dân vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, mặt khác, thông qua quá trình vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất, hoạt động xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ kiến thức... để tăng cường sự đoàn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” được coi là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.

Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tôn giáo, nhằm nâng cao trình độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào, làm cho quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực, nghiêm chỉnh thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính tri, do Đảng lãnh đạo. Cần củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo các cấp. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo gây phương hại đến lợi ích Tổ quốc, dân tộc chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.

- Về vấn đề theo đạo và truyền đạo.

Theo đạo và truyền đạo (truyền bá tôn giáo) là những loại hoạt động tôn giáo khác nhau, cả về hành vi, mục đích, người thực hiện. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.

Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

 

11. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những định hướng công tác lớn trong thực hiện chính sách, pháp luật đối với tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta hiện nay? Trách nhiệm cá nhân của sinh viên?

1) Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những định hướng công tác lớn trong thực hiện chính sách, pháp luật đối với tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta hiện nay?

Cơ sở lý luận: các công ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo.

Cơ sở thực tiễn: Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo và có nhiều loại hình tín ngưỡng.Trong lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chức sắc, tín đồ các tôn giáo đều có những đóng góp to lớn, quan trọng.Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, đoàn kết tôn giáo là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta được cụ thể bằng pháp luật và đảm bảo trên thực tế và đây là một trong những quyền cơ bản của công dân, được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định (Hiến pháp năm 2013).

Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945 tại phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo. Người nói: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương - giáo đoàn kết”. Ngày 14/6/1955, Người đã ký Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân. Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo gây rối loạn”. Người từng kêu gọi các tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà.

Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990; Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12-3-2003. Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/ PL- UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành Nghị địnhsố 22/2005/NĐ-CP ngày 1-3- 2005 về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 “về nhà, đất liên quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đây là điều rất cần thiết nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi rất quan trọng về chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt Nam mà là của “mọi người”, ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thông qua, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018.

 

Làm rõ những định hướng lớn trong thực hiện chính sách, pháp luật đối với tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta hiện nay?

v  Đặc điểm cơ bản của vấn đề tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo

Nước ta hiện nay có 13 tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân (Phật giáo, Công Giáo, Hồi giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Baha'i, Minh Lý đạo - Tam Tông miếu, Giáo hội Phật đường Nam Tông Minh Sư Đạo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Bà la môn) và trên 40 tổ chức tôn giáo đã được công nhận về mặt tổ chức hoặc đã đăng ký hoạt động với khoảng 24 triệu tín đồ, 95.000 chức sắc, 200.000 chức việc và hơn 23.250 cơ sở thờ tự. Các tổ chức tôn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác nhau. Có tôn giáo du nhập từ bên ngoài, với những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau, như Phật giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hồi giáo; có tôn giáo nội sinh, như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo.

Tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình; không có xung đột, chiến tranh tôn giáo

Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa thế giới, trong đó chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh lớn là Trung Quốc và Ấn Độ; về sau chịu tác động, ảnh hưởng của các luồng văn hóa của các quốc gia phương Tây. Hơn nữa, Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, nên từ ngàn xưa đã dung nạp, dung hòa nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng và phong phú.

Các tôn giáo ở Việt Nam có sự đa dạng về nguồn gốc và truyền thống lịch sử. Mỗi tôn giáo ở Việt Nam có quá trình lịch sử tồn tại và phát triển khác nhau, nên sự gắn bó với dân tộc cũng khác nhau. Tín đồ của các tôn giáo khác nhau cùng chung sống hòa bình trên một địa bàn, giữa họ có sự tôn trọng niềm tin của nhau. Ở Việt Nam chưa từng xảy ra xung đột, chiến tranh tôn giáo. Thực tế cho thấy, không có một tôn giáo nào du nhập vào Việt Nam mà không mang dấu ấn, không chịu ảnh hưởng của bản sắc văn hóa Việt Nam.

Các tôn giáo ở Việt Nam nói chung luôn đồng hành cùng dân tộc, có nhiều đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước

Các tôn giáo ở Việt Nam, dù nội sinh hay du nhập, với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nhưng đều có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cộng đồng dân tộc. Sự quan hệ, tác động lẫn nhau giữa dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam đã tạo nên những đặc thù của vấn đề dân tộc - tôn giáo Việt Nam, chi phối đến nhiều lĩnh vực của đời sống cộng đồng, đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cả trong quá khứ và hiện tại.

Các tôn giáo, quá trình ra đời, du nhập, tồn tại và phát triển trong lòng cộng đồng dân tộc Việt Nam, về cơ bản là đồng hành cùng dân tộc, đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị - xã hội, góp phần làm phong phú, hiện đại các giá trị văn hóa, tư tưởng Việt Nam truyền thống.

Về khía cạnh văn hóa, các tôn giáo du nhập, đứng chân ở Việt Nam cũng mang đến nhiều giá trị văn hóa mới, góp phần làm hiện đại, phong phú, đa dạng hơn nền văn hoá Việt Nam. Tôn giáo, trong giá trị và ý nghĩa lành mạnh của nó có nội dung đạo đức, có giá trị và ý nghĩa văn hóa, đặc biệt là văn hóa tinh thần (từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha trong đạo Phật; bác ái, bao dung trong đạo Công Giáo là những minh chứng điển hình). Nền văn hoá của dân tộc Việt Nam, bên cạnh những giá trị truyền thống, các tôn giáo đã mang đến nhiều giá trị văn hoá mới. Mặt khác, sự du nhập các giá trị văn hóa tôn giáo, trước hết là kết quả của quá trình giao lưu văn hoá Việt Nam với nước ngoài, do đó, góp phần nâng cao, hiện đại thêm các giá trị văn hoá Việt Nam truyền thống. Người Việt Nam tiếp nhận tôn giáo, cả ở khía cạnh thực hành giáo lý, giáo luật, nghi thức tôn giáo và cả ở khía cạnh văn hóa.

Có thể khẳng định, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các tôn giáo đã làm vẻ vang thêm cho nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Vì vậy, khó có thể hình dung sự đa dạng của nền văn hoá Việt Nam nếu thiếu đi những nét văn hoá độc đáo do văn hóa các tôn giáo mang lại.

Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc

Tín đồ các tôn giáo Việt Nam có thành phần rất đa dạng, chủ yếu là người lao động, bao gồm nông dân, công nhân... Đa số tín đồ các tôn giáo đều có tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, tôn trọng công lý, gắn bó với dân tộc, đi theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những thắng lợi to lớn, vẻ vang của dân tộc. Nhưng là tín đồ tôn giáo, đồng bào có nhu cầu tín ngưỡng, có ước vọng sống “tốt đời, đẹp đạo”.

 

2) Trách nhiệm cá nhân của sinh viên

Trách nhiệm của sinh viên trong nhận thức, thực hiện, tuyên truyền những vấn đề liên quan đến quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay?

Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội, mà còn là một thực thể xã hội đặc biệt, có quan hệ đến mỗi cá nhân và cộng đồng, đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và trong một chừng mực nào đó, tôn giáo quan hệ đến sự ổn định về chính trị - xã hội, sự tồn vong của một thể chế, một quốc gia, dân tộc. Vì vậy, học tập, nghiên cứu vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sinh viên cần chú ý một số vấn đề có tính phương pháp luận sau:

Một là, luôn đứng trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu, xem xét tổng thể vấn đề tôn giáo, cũng như từng khía cạnh của nó.

Hai là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải gắn với thực tiễn tồn tại, vận động của chính vấn đề tôn giáo.

Ba là, nghiên cứu vấn đề tôn giáo phải gắn với việc phê phán các quan điểm không đúng về vấn đề tôn giáo.

Bốn là, kết hợp, kế thừa các phương pháp, thành quả nghiên cứu về tôn giáo của các ngành khoa học khác.

Trả lời

Trong xu thế hội nhập, các tôn giáo đều đẩy mạnh hoạt động truyền giáo; bên cạnh đó, người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước và người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống, làm việc gia tăng, sẽ có nhiều hệ phái, tổ chức tôn giáo mới ở nước ngoài truyền bá vào Việt Nam. Các tổ chức tôn giáo tăng cường truyền đạo xuyên biên giới, thông qua mạng Intenet để đào tạo chức sắc, thuyết giảng không cần địa điểm và không xin phép... gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước. Do đó, việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo cho toàn xã hội là việc làm hết sức cần thiết trong thời gian tới.

chế độ chính sách thu hút đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; sắp xếp mô hình tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, phối hợp ngăn chặn, quản lý chặt chẽ các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới có tính cực đoan, không để hình thành tổ chức hoạt động trái pháp luật, gây bức xúc trong xã hội.

Đổi mới phương thức tuyên truyền, vận động tín đồ các tôn giáo theo hướng ứng dụng công nghệ, thông tin truyền thông vào công tác tuyên truyền. Chú trọng xây dựng gương điển hình, tiên tiến, người tốt, việc tốt trong cộng đồng tín đồ các tôn giáo, tham gia các phong trào xã hội, như: xây dựng nông thôn mới, bảo trợ xã hội, phát triển kinh tế, doanh nhân thành đạt… để các chức sắc, tín đồ tôn giáo tham gia, nhất là đối với các tôn giáo nội sinh chưa có hệ thống bộ máy tổ chức, hệ thống giáo luật hoàn chỉnh. Cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân và các tổ chức tôn giáo; phát huy nguồn lực của các tôn giáo đóng góp cho xã hội trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội, góp phần giảm ngân sách nhà nước.

Tăng cường các hoạt động thăm hỏi, tiếp xúc với các chức sắc, tín đồ các tôn giáo, nhất là các ngày lễ quan trọng trong năm, như: Ngày lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh…. . Tăng cường công tác tiếp xúc, vận động chức sắc, chức việc tôn giáo; hướng dẫn các tổ chức tôn giáo đăng ký và tổ chức các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc. Tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nắm vững diễn biến tâm lý, từ đó giúp chính quyền chủ động trong mọi tình huống phát sinh. Chủ động đối thoại với chức sắc, tín đồ tôn giáo, nhất là trong các vấn đề nhạy cảm liên quan đến khiếu kiện, khiếu nại, vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự để có biện pháp giải quyết.

 

Nhận xét

Mình viết về...

Hướng dẫn các nhịp và một số beat cơ bản của Pen Tapping

1-Các nhịp cơ bản:  Đầu tiên các bạn cần có bút còn về loại thì các bạn quen loại nào thì nên sử dụng loại ấy. Mình thì mình sử dụng bút jollee.  Do xem một số video về các nhịp của các anh chị rồi nên mình nghĩ thì đa số các nhịp 1,2,3 của mọi người sẽ giống nhau còn từ 4 trở đi thì mỗi người thường có một kiểu riêng. Còn mình thì mình học các nhịp của chị Suki Nguyễn  nên mình sẽ viết lại các nhịp đó.  -Nhịp 1: Gõ cổ tay phải.  -Nhịp 2: Gõ đầu bút. (phải)  -Nhịp 3: Gõ thân bút. (Nên gõ hết cả thân bút xuống mặt bàn)  -Nhịp 4: Gõ đầu bút bằng tay trái.   -Nhịp 5: Nhịp quẹt bút. (phải)  -Nhịp 6: Gõ vào cốc.   -Nhịp 7: Gõ cổ tay trái.  -Nhịp 8: Gõ thân bút bằng tay trái.  -Nhịp 9: Gõ đuôi bút bằng tay phải.  -Nhịp 0: Nhịp đuôi bút bằng tay trái. 2-Một số beat cơ bản:  Theo mình biết thì có beat một tay và beat hai tay. Mình nghĩ là các bạn nên tập beat một tay trước nên mình chỉ giới thiệu beat một tay thôi.  -Be

Câu hỏi ôn tập cuối chương | Quản trị học

  Chương I: Tổng quan về quản trị 1.       Có người nói rằng Giám đốc một nhà máy cơ khí phải giỏi về cơ khí hơn các kỹ sư trong nhà máy đó. Bạn có đồng ý với điều này không? Giải thích lý do. Đầu tiên, em khẳng định quan điểm của bản thân là: Giám đốc không nhất thiết phải là người giỏi nhất về cơ khí trong nhà máy. Xét về khía cạnh kinh tế học, kỹ sư và giám đốc là 2 chức vụ khác nhau có chuyên môn khác nhau: ·         Kỹ sư là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra một sản phẩm nào đó trong chuỗi sản xuất của xí nghiệp; là 1 kỹ sư giỏi, cần nghiên cứu, tìm hiểu để làm sao nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng của sản phẩm luôn luôn được nâng cao và đổi mới. ·         Giám đốc là người trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về việc quản lý, phân công trách nhiệm, vạch hướng đi cho công ty,  Ngoài ra, chúng ta phải xét đến trường hợp: Giám đốc một nhà máy cơ khí mà giỏi về cơ khí hơn kỹ sư thì quá hoàn hảo. Bởi như thế Giám

May / Might as well | Viết lại câu: Không còn lựa chọn nào khác ngoài

Lý thuyết: Khi nói về trường hợp không còn lựa chọn khác ngoài lựa chọn này, ta sử dụng cấu trúc May (hoặc Might) as well + Verb0 Các cấu trúc đồng nghĩa khác (bài tập dạng: Viết lại câu mang nghĩa tương đương): Have no choice but to Verb0 Have no alternative but to Verb0 Make no difference Đáp án ở cuối trang Đề : Finish the second sentence so that it has a similar meaning to the first one, beginning with the given words or phrases: 1. Although you are in charge, it doesn't give you the right to be rude. You may 2. Although I tried hard, I couldn't lift the suitcase. Try 3. It would be all the same if we gave up now. We might 4. It makes no difference if we call it off. We may 5. Although it's summer, the temperature is more like winter. It may 6. Is it necessary to drive Dr. Andrews to the airport. Must 7. Perhaps these are the keys. These 8. It's possible that we know the answer tomorr

Thảo luận môn Pháp luật Thương mại hàng hóa và dịch vụ

 TM: thương mại LTM: Luật Thương mại năm 2005 Đ: Điều NĐ: nghị định HĐ: hợp đồng bt: bồi thường btth: bồi thường thiệt hại CHƯƠNG I Doanh nghiệp tư nhân/hộ kinh doanh hay chủ doanh nghiệp tư nhân/chủ hộ kinh doanh là thương nhân?  5. Trong những trường hợp nào LTM 2005 không được mặc nhiên áp dụng mà chỉ được áp dụng khi có thoả thuận trong hợp đồng? 1. Theo Khoản 3 điều 1 Luật TM: Hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này 2. Đối với những hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam (khi đó, Luật Thương mại không được đương nhiên áp dụng), nhưng nếu các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật Thương mại Việt Nam hoặc chọn áp dụng luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật Thương mại Việt Nam (khoản 2 Đ 1 LTM) 3. khoản 2 Đ 5: Các bên trong gia

Ôn tập nhận định và bài tập môn Luật WTO

  CHƯƠNG 3: CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI – WTO  CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH ĐÚNG, SAI   1. Theo quy định của WTO, các quốc gia thành viên không được phép áp dụng các mức thuế xuất khẩu khác nhau lên hàng nhập khẩu tương tự có xuất xứ từ các thành viên WTO khác.  Nhận định SAI.  Các quốc gia thành viên  được phép áp dụng các mức thuế xuất khẩu khác nhau lên hàng nhập khẩu tương tự có xuất xứ từ các thành viên WTO khác khi thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 5 Điều XXIV GATT để lập ra một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do giữa các lãnh thổ thành viên.  CSPL: khoản 5 Điều XXIV GATT.   2. Thành viên WTO không được phép áp thuế nhập khẩu vượt quá mức trần đã cam kết.  Nhận định SAI.  Một số trường hợp Thành viên WTO được phép áp thuế nhập khẩu vượt quá mức trần đã cam kết như quy định tại Điều II.2 GATT 1994.   3. Điều XX Hiệp định GATT 1994 chỉ ghi nhận ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc.  Nhận định SAI.  Ngoại lệ quy định tại Điều XX Hiệp

Trắc nghiệm Quản trị học có đáp án

  1.    Vai trò của mục tiêu trong quản trị quyết định? A. Lượng hóa các mục đích hướng đến của nhà quản trị B. Là điểm xuất phát và là cơ sở của mọi tác động trong quản trị           C. Thước đo hoạt động của nhà quản trị     D. Tất cả đều đúng 2. Công nghệ mới 4.0 là yếu tố thuộc môi trường? A. Môi trường vĩ mô B. Môi trường đặc thù C. Môi trường vi mô D. Môi trường bên trong 3. Lý thuyết chú trọng đến yếu tố con người trong quản trị là? A. Lý thuyết định lượng         B. Lý thuyết tâm lý xã hội   C. Lý thuyết quản trị cổ điển            D. Lý thuyết kiểm tra 4. Cơ cấu tổ chức liên quan đến A. Mục tiêu của tổ chức B. Bản chất sở hữu C. Số lượng nhân viên hiện có D. Tất cả dều đúng 5. Kiểm soát chất lượng quản trị tổng thể cần tiến hành hình thức kiểm tra? A. Kiểm tra hiện hành                        B. Kiểm tra lường trước         C. Kiểm tra phản hồi             D. Tất cả đều sai 6. Nhà quản trị có trách nhiệm thay mặt cho mọi thành

Trắc nghiệm môn Thanh toán quốc tế có đáp án

  CÂU 1 . UCP 600 được áp dụng đương nhiên đối với:  a/ L/C mở bằng thư  b/ L/C mở bằng telex  c/ L/C mở bằng Swift  d/ Tất cả các phương án trên đều không đúng.  D. Điều 1 UCP 600: L/C ghi áp dụng UCP thì UCP được áp dụng CÂU 2: Phiên bản UCP nào sau đây còn hiệu lực áp dụng:  a/ UCP 600 ICC 2007  b/ UCP 500 ICC 1993  c/ UCP 400 ICC 1983  d/ Tất cả các phiên bản đều còn nguyên hiệu lực.   D. UCP là tập quán quốc tế, bản sau không phủ định giá trị của bản trước CÂU 3: Nêu định nghĩa "tín dụng chứng từ" trong UCP 600. Tên gọi nào sau đây là đúng đối với  phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:  a/ Tín dụng /chứng từ  b/ Thư tín dụng  c/ Tín dụng thư  d / Tất cả đều đúng  CÂU 4. Ta có dữ liệu trong một bức L/C như sau: Date of Issue: 130101; Date of Expiry: 130315.  Latest day of Shipment: 121225. Công ty X giao hàng ngày 25/12/2012. Vậy ngày trễ nhất để xuất  trình chứng từ là ngày nào?  a. 16/01/2013  b. 15/01/2013  c. 15/02/2013  d. 15/03/2013  CÂU 5. Ta có dữ liệu sau: Ng